BẢN TỔNG HỢP PHIÊN CHẤT VẤN VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN TẠI KỲ HỌP THỨ BẢY HĐND TỈNH KHÓA XIII Tại kỳ họp thứ bảy HĐND tỉnh khoá XIII đã có 3 đại biểu chất vấn UBND tỉnh và 2 sở, ngành: Công thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về vấn đề quản lý hoạt động thương mại trên địa bàn, hiệu quả hoạt động của Trung tâm Giống nông nghiệp tỉnh Lai Châu và Việc chậm triển khai các dự án thủy điện của các tập đoàn, tổng công ty. Nội dung chất vấn đã được trả lời tại kỳ họp và trả lời bằng văn bản. Trên cơ sở trả lời chất vấn bằng văn bản và gỡ băng ghi âm phiên chất vấn, Ban Biên tập tổng hợp nội dung phiên chất vấn, như sau:
1. Đại biểu Vương Văn Thắng, Tổ đại biểu huyện Tam Đường chất vấn Sở Công thương: Trong những năm qua, các hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh tỉnh ta đã thu được một số kết quả nhất định, đáp ứng một phần nhu cầu hàng hóa của nhân dân. Tuy nhiên, hoạt động thương mại ở Lai Châu chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, giá trị xuất nhập khẩu nhiều năm không đạt kế hoạch, chưa có chiến lược sản xuất hàng hóa chủ lực của tỉnh, hoạt động xúc tiến thương mại chưa rõ nét, nhiều sản phẩm hàng hóa nhân dân sản xuất chưa có thương hiệu, chưa có thị trường tiêu thu, công tác quản lý thị trường chưa tốt dẫn đến hàng hóa kém chất lượng, quá hạn chuyển về vùng sâu, vùng xa dẫn đến ngộ độc thực phẩm, chưa thu hút được doanh nghiệp tham gia kinh doanh sản xuất chế biến hàng hóa trên địa bàn tỉnh. 1. Để tình trạng trên kéo dài, chậm khắc phục trách nhiệm thuộc về ai? Trách nhiệm của đồng chí Giám đốc Sở như thế nào? 2. Với cương vị là Giám đốc Sở, đồng chí sẽ tham mưu cho tỉnh để xây dựng quy hoạch chiến lược kế hoạch và có giải pháp gì để đưa các hoạt động thương mại của tỉnh phát triển trong thời gian tới. 3. Để quản lý hàng trăm hàng, quán ở các xã vùng sâu, vùng xa cần phải làm gì? Làm như thế nào? Bao giờ làm? Ông Nguyễn Sỹ Chín – Giám đốc Sở Công thương trả lời (Tại văn bản số 172/SCT-KHTC ngày 05/12/2013 của Sở Công Thương): * Về chỉ tiêu giá trị hàng địa phương xuất khẩu: - Trách nhiệm quản lý nhà nước: Sở Công thương đã phối hợp với các ngành tham mưu Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh ban hành các văn bản: Nghị quyết số 10-NQ-TU ngày 16/3/2007 của Tỉnh ủy về phát triển kinh tế cửa khẩu gia đoạn 2007-2015; Chương trình hành động của UBND tỉnh về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ-TU ngày 16/3/2007 của Tỉnh ủy; Chương trình phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tỉnh Lai Châu đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020; Chương trình hành động thực hiện chiến lược xuất khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020, định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Lai Châu; các quy hoạch ngành đến năm 2020 như: Quy hoạch phát triển ngành thương mại, Quy hoạch phát triển công nghiệp, Quy hoạch thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản; Quy hoạch mạng lưới kinh doanh xăng dầu, Quy hoạch phát triển mạng lưới chợ, trung tâm thương mại và siêu thị; các sách thu hút, ưu đãi, hỗ trợ đầu tư thuộc lĩnh vực công thương. Theo đó, UBND tỉnh và các cơ quan tham mưu đã có những giải pháp tạo điều kiện và hành lang pháp lý để kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này, do đó giá trị xuất khẩu địa phương không đạt mục tiêu đề ra như sau: - Vùng nguyên liệu ít và không tập trung như ngô, sắn, thảo quả. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực xác định trong kế hoạch xuất khẩu như: quặng, tinh quặng các loại không được xuất khẩu do thực hiện Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 09/01/2012 của Thủ tường Chính phủ về việc tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng và xuất khẩu khoáng sản. - Cơ sở hạ tầng giao thông chưa phát triển, chi phí vận chuyển lớn, giá thành sản phẩm cao, hiệu quả đầu tư thấp, do đó các doanh nghiệp không đầu tư vào địa bàn tỉnh; trong đều kiện ngân sách nhà nước không được bỏ vốn vào lĩnh vực này. * Về hoạt động khuyến công, xúc tiến thương mại Từ năm 2012 đến nay với nguồn kinh phí hỗ trợ của Bộ Công thương và của tỉnh, Trung tâm Khuyến nông và xúc tiến thương mại đã phối hợp với các cơ sở công nghiệp nông thôn trên địa bàn triển khai thực hiện được 02 mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất miến dong, nước giải khát và sữa lạc đóng chai, 17 lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn; hỗ trợ thành lập mới 09 doanh nghiệp, tổ chức 01 đoàn tham quan khảo sát học tập kinh nghiệm về hoạt động khuyến công; 07 phiên chợ đưa hàng việt về vùng sâu, vùng xa; 04 lớp thương mại điện tử; 02 lớp xúc tiến thương mại, tham gia 08 hội chợ các tỉnh phía bắc; tổng kinh phí hỗ trợ là 2,6 tỷ đồng. Riêng trên đại bàn huyện Tam Đường đã triển khai một số nội dung khuyến công và xúc tiến thương mại như: + Phối hợp với Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Duy Sơn tại xã Bình Lư tổ chức Mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất miến dong bàng đốt sinh học, với kinh phí hỗ trợ 100 triệu đồng. + Phối hợp với HTX cơ khí Mường Lay mở 02 lớp đào tạo nghề hàn cho 70 lao động với kinh phí hỗ trợ 119 triệu đồng. + Phối hợp với Hộ kinh doanh Nguyễn Văn Hiển mở 01 lớp đào tạo nghề mộc cho 35 lao động, với tổng kinh phí hỗ trợ 52,5 triệu đồng. + Phối hợp với Phòng Công thương tổ chức 01 phiên chợ đưa hàng Việt về nông thôn. + Phối hợp với các cơ sở công nghiệp nông thôn tổ chức đưa các sản phẩm như miến dong, thảo quả, chè khô chế biến,...tham gia Hội chợ Quốc tế Lao Cai; Hội chợ hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Bắc Ninh và các hội chợ trung du miền núi phía bắc. Tuy nhiên, các cơ sở sản xuất số lượng ít, quy mô nhỏ, trình độ quản trị kinh doanh còn hạn chế, công nghệ sản xuất xòn lạc hậu dẫn đến hàng hóa sản xuất ra có tính cạnh tranh không cao. Các doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc xây dựng và quảng bá thương hiệu các sản phẩm (có nhiều doanh nghiệp khi được mời tham gia chương trình xúc tiến thương mại đòi hỏi nhà nước phải bao cấp toàn bộ các chi phí như vận chuyển hàng hóa, tiền đi lại, ăn ở...) * Về công tác quản lý thị trường Trong nhứng năm qua, Sở Công thương đã tích cực thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống các hàng kém chất lượng; phòng chống vận chuyển, kinh doanh gia súc, gia cầm và các sản phẩm từ gia súc, gia cầm nhập lậu không qua kiểm dịch, góp phần ổn định thị trường và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng. Kết quả: Từ năm 2013 đến nay lực lượng quản lý thị trường đã phối hợp với các lực lượng chức năng kiểm tra trên 3.500 lượt cơ sở sản xuất kinh doanh, phát hiện xử lý 255 vụ vi phạm về buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu, sản xuất kinh doanh hàng giả, kém chất lượng không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Tổng số tiền xử phạt hành chính và trị giá hàng hóa tịch thu trên 2,5 tỷ đồng. Hàng hóa tịch thu gồm: Mỳ chính giả các loại 540kg; bánh kẹo các loại quá hạn dùng 6.050 gói; dầu gội đầu giả các loại 25.000 gói 75ml; bột giặt ô mô giả 2.205 kg; giống gia cầm các loại nhập lậu 11.175 con; trứng gia cầm 8.050 quả. Trong quá trình thực thi công vụ thi công kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thường với địa bàn rộng, đường biển giới dài, đi lại khó khăn, lực lượng quản lý thị trường mỏng, trung bình mõi đội quản lý thị trường chỉ có 03 công chức, mỗi công chức phảo quản lý từ 3 đến 4 xã, phường, thị trấn; các đội quản lý thị trường tại các huyện phải thuê trụ sở làm việc, trang thiết bị, kinh phí phục vụ công tác kiểm tra kiểm soát còn thiếu thốn nên việc kiểm tra, kiểm soát gặp nhiều khó khăn, do đó chưa thể kiểm soát triệt để được việc buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng. Để làm tốt nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát thị trường, bên cạnh sự nỗ lực của lực lượng quản lý thị trường, cần phải có sự phối hợp đồng bộ của các ngành, sự quan tâm chỉ đạo sát sao của cấp ủy, chính quyền địa phương và sự ủng hộ của nhân dân. Đề nghị các đại biểu hội đồng nhân dân trong quá trình giám sát nếu phát hiện các hành vi gian lận thương mại có ý kiến ngay với chính quyền cấp huyện, xã để UBND huyện yêu cầu Đội Quản lý thị trường đóng trên địa bàn phối hợp, ngăn chặn, xử lý theo quy định của pháp luật. * Về quản lý các hộ kinh doanh thương mại ở các xã vùng sâu, vùng xaTheo điều 9, Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp quy định: Việc cấp giấy chứng nhận cho các hộ kinh doanh cá thể thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện. Theo điều 11, Nghị định Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp quy định: UBND huyện có trách nhiệm trực tiếp kiểm tra hộ kinh doanh theo nội dung trong hồ sơ đăng ký trên phạm vi đại bàn quản lý; yêu cầu các hộ kinh doanh báo cáo tình hình kinh doanh khi cần thiết. Sở Công thương có trách nhiệm phối hợp với UBND các huyện hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ và công tác quản lý thị trường. * Một số giải pháp triển khai thương mại trong thời gian tới. - Tham mưu cho UBND tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện các quy hoạch phát triển ngành công thương đã được phê duyệt. - Đẩy mạnh các hoạt động khuyến công, xúc tiến thương mại thông qua việc triển khai các vấn đề gắn với Chương trình 30a của Chính phủ về hỗ trợ giảm nghèo nhanh, bền vững đối với các huyện nghèo trong tỉnh; tham mưu xây dựng chương trình khuyến công, xúc tiến thương mại địa phương nhằm hỗ trợ các cơ sở công nghiệp nông thôn mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo ra những sản phẩm có chất lượng, giá trị gia tăng cao để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo thêm mặt hàng xuất khẩu cho địa phương. - Đẩy mạnh sản xuất và nâng cao chất lượng hàng địa phương xuất khẩu: + Hình thành các vùng nguyên liệu tập trung: Ngô, sắn, cao su, chè; sử dụng các loại giống chất lượng cao để cung ứng cho sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu; xây dựng các nhà máy chế biến với công nghệ tiên tiến để nâng cao giá trị hàng địa phương xuất khẩu. + Khai thác đất hiếm tại mỏ Đông Pao, huyện Tam Đường, khai thác vàng tại khu vực Pu Sam Cáp sau khi được Chính phủ cấp phép. - Phối hợp với Cục Xúc tiến thương mại – Bộ Công thương giới thiệu cho các doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu của địa phương đến các đối tác nước ngoài có nhu cầu nhập khẩu. Quảng bá miễn phí hình ảnh và sản phẩm có thế mạnh của địa phương trên cổng thông tin điện tử của Bộ Công thương và của tỉnh. - Phối hợp với Sở Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và các ngành liên quan tham mưu UBND tỉnh phương án tạm ứng vốn ngân sách tỉnh thực hiện chương trình bình ổn giá thị trường để tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trường trong dịp tết Nguyên đán Giáp Ngọ và phục vụ sản xuất năm 2014. - Phối hợp với các ngành liên quan tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường chống buôn lậu, buôn bán, vận chuyển hàng cấm, hàng giả, hàng kém chất lượng; kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, đăng ký giá, kê khai giá đối với các mặt hàng thiết yếu, mặt hàng bình ổn giá. Thực hiện có hiệu quả Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phòng ngừa, ngăn chặn và chuyển kinh doanh gia cầm nhập khẩu trái phép. - Đại biểu Vương Văn Thắng chất vấn thêm: Đồng chí giám đốc Sở đã trả lời khá rõ một số nội dung, tuy nhiên đề nghị đồng chí trả lời thêm các nội dung sau: Thứ nhất, những tồn tại, hạn chế trên có hay không? Nếu có thì trách nhiệm thuộc về ai? Hai là, Giá trị xuất nhập khẩu hàng địa phương của tỉnh trong hai năm qua: Năm 2012 mới đạt 6/7,2 triệu USD, đạt 83%; năm 2013 đạt 4/6,5 triệu USD, đạt 61%. Vậy kế hoạch năm 2014, tiếp tục đề ra là 6,5 triệu USD, tương đương với 50 tỷ đồng. Theo đồng chí, có nên giữ kế hoạch 6,5 triệu USD không hay giảm xuống, đề nghị đồng chí làm rõ kế hoạch này. Thứ ba, Trong báo cáo trả lời chất của đồng chí nêu: một số vùng nguyên liệu như chè, ngô, thảo quả, lúa ít, không đủ tạo thành sản phẩm hàng hóa. Nhưng trong báo cáo của UBND tỉnh: cả tỉnh có 73.000 ha các loại nông sản. Việc sử dụng sản phẩm này một số nơi dư thừa, có thể tạo thành sản phẩm háng hóa được; chè có khoảng 2000 tấn; thảo quả như Tam Đường có khoảng 1.000 ha, mỗi năm có khoảng hàng trăm tấn; các nguyên liệu khác có khoảng 2.000- 3.000 ha, mỗi năm có sản lượng hàng trăm tấn. Do đó, không phải là không có nguyên liệu, để tạo mặt hàng chủ lực và không có thị trường tiêu thụ, đề nghị đồng chí nghiên cứu. Theo chủ trương của Ban Chấp hành Tỉnh ủy trong thời gian tới, chúng ta phải tạo ra một số sản phẩm hàng hóa. Vậy trong thời kỳ tới, giải pháp như thế nào? Thứ tư, Đồng chí có nắm được về tình trạng tình hình hiện nay nhiều hàng hóa quá hạn, kém chất lượng; hàng hóa không bán được, hàng hóa có hóa chất, có thể gây ung thư không bán được ở thị xã thì mang đến vùng sâu, vùng xa bán? Kiểm soát chung cả tỉnh Lai Châu như thế nào? Một số nơi như chợ Dào San, chợ Sì Lở Lầu có một số sản phẩm bên kia biên giới mang sang bán, rất dễ ngộ độc, đặc biệt vừa qua, vụ ngộ độc ở xã Nậm Ban của Sìn Hồ mặc dù chưa có tử vong. Vậy, đề nghị đồng chí làm rõ giải pháp để quản lý, lưu chuyển hàng hóa, kinh doanh hàng hóa trên địa bàn tỉnh? Thứ năm, Trong báo cáo của đồng chí có nêu “Đẩy mạnh sản xuất hàng chất lượng cao; tạo vùng nguyên liệu: ngô, sắn, cao su, chè… Xây dựng các nhà máy chế biến với công nghệ tiên tiến thì việc này bao giờ làm? Thời gian nào? - Ông Nguyễn Sỹ Chín - Giám đốc sở Công thương trả lời: + Về hàng hóa quá hạn, kém chất lượng, trong báo cáo trả lời chất vấn đã có. Theo quy định về cấp phép, thẩm quyền cấp phép và quản lý của Chính phủ thì việc xử lý thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện. Tỉnh đã ban hành quy chế phối hợp, trách nhiệm việc chỉ đạo và quản lý vấn đề này thuộc UBND huyện. Phía sở Công thương chỉ hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ và phối hợp kiểm tra. Vì vậy, đề nghị đồng chí chỉ đạo các lực lượng chức năng của huyện tăng cường, quan tâm công tác này và giúp chúng tôi hoàn thành trách nhiệm về kiểm tra, kiểm soát thị trường. Riêng vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, đề nghị Ban dịch tễ của Sở Y tế chia sẻ nội dung này với chúng tôi (Sở Công thương). Vì chất lượng hàng hóa kém hay không thì để Sở Y tế giám sát vấn đề này. Chúng tôi, chỉ kiểm tra về tem, nhãn, thời gian, nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm còn việc hàng kém chất lượng hay không đảm bảo thì đấy thuộc về trách nhiệm của ngành y tế. + Về một số hàng địa phương xuất khẩu và giải pháp: Chúng tôi đã trình bày trong báo cáo trả lời. Phương án có đạt được hay không thì còn phụ thuộc việc hình thành các nguồn, vùng nguyên liệu tập trung như: Ngô, Sắn, Chè, Cao su, dược liệu. + Về ngân sách: Theo quy định về hội nhập thì ngân sách tỉnh không được đầu tư trực tiếp vào vấn đề này. Trong thời gian tới, loại hàng chiến lược nhất theo kế hoạch của chúng ta là khoáng sản, với các loại quặng: đồng, chì, kẽm, vàng. Nếu được Thủ tướng Chính phủ cho phép thì chúng ta sẽ khai thác. Hoặc như mỏ đất hiếm ở Đông Pao thì số lượng rất nhiều nhưng chưa phê duyệt. Đấy là một số mặt hàng xuất khẩu cao trong kế hoạch xuất khẩu, chiến lược xuất khẩu, ổn định xuất khẩu đã xác định rồi còn một số sản phẩm phụ xuất khẩu như: Ngô, Khoai, Sắn thì tôi đã báo cáo là: nguyên liệu có nhưng không tập trung. Chúng ta phải quy hoạch được vùng ngô, vùng lúa như vùng chè – sản phẩm có giá trị cao nhất như chè ở Tân Uyên, Than Uyên, Tam Đường, thị xã Lai Châu. Còn trách nhiệm thuộc về ai trong phần lý do không đạt trên đã nói, thời gian qua chúng ta đã có nhiều chính sách thu hút đầu tư, quan tâm đầu tư nhưng việc đầu tư cho các mặt hàng xuất khẩu là trách nhiệm của các doanh nghiệp, chứ không phải là trách nhiệm của tỉnh. Việc chúng ta ban hành ra cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý; chúng ta không thể bỏ tiền ra trực tiếp đầu tư sản xuất được, đề nghị quý vị đại biểu HĐND chia sẻ với chúng tôi, không thể tham mưu cho tỉnh bỏ kinh phí ra sản xuất chè, khai thác khoáng sản được mà đó là việc của Doanh nghiệp, doanh nhân. - Bà: Giàng Páo Mỷ - Chủ tọa kỳ họp có ý kiến: Có 4 câu hỏi, đồng chí đã trả lời 3 câu hỏi còn một câu hỏi đề nghị đồng chí Giám đốc Sở khẳng định có hay không những tồn tại mà đại biểu đã nêu? Đồng thời đồng chí nêu rõ thêm trách nhiệm của sở, tất nhiên có trách nhiệm của cả cộng đồng, cả hệ thống chính trị nhưng đề nghị đồng chí nêu rõ thêm trách nhiệm của mình trong thời gian qua để xảy ra các tình trạng như trên? Nếu có thì trách nhiệm của đồng chí như thế nào? Trong các phương hướng đề ra có việc đẩy mạnh sản xuất chất lượng cao, vậy đề nghị đồng chí cho biết bao giờ làm? - Ông: Nguyễn Sỹ Chín - Giám đốc sở Công thương trả lời các vấn đề theo đề nghị của chủ tọa kỳ họp: Thứ nhất, khi nào chúng ta quy hoạch tập trung toàn bộ diện tích về thâm canh các vùng nguyên liệu như: ngô, khoai, sắn. Tập trung được để các Doanh nghiệp thấy được đấy là sự thuận lợi. Chứ bây giờ hàng hóa, vùng nguyên liệu nhỏ lẻ như vậy. Tôi thấy thời gian nào là phụ thuộc vào việc chúng ta có quy hoạch được vấn đề này không. Thứ hai, khi nào Thủ tướng cấp phép cho chúng ta khai thác khoáng sản như các loại khoáng sản đồng, chì, kẽm, quặng đất hiếm ở Đông Pao. Vấn đề này hoàn toàn không phụ thuộc vào thẩm quyền của tỉnh. Và vấn đề quy tụ toàn bộ vùng nguyên liệu này rất khó mà nếu các nhà Doanh nghiệp đầu tư vào đây phải tính toán được nguyên liệu cho nhà máy, mấy chục tỷ như thế thì nguyên liệu có không? Hay là phải mua nguyên liệu từ Sơn La, Điện Biên, Lào Cai. Trong khi hiện nay Lào Cai đang vận động chúng ta đưa các quặng cho Lào Cai khai thác mà chúng ta lại đầu tư nhà máy, chế biến sâu vào đây thì liệu có sản phẩm không? Có nguyên liệu không? Nếu tôi trả lời thẳng ra thì khó nhưng tôi chỉ nêu khi nào Chính phủ cấp phép, khi nào chúng ta tạo được vùng nguyên liệu tập trung… Còn về phía trách nhiệm trong quản lý hàng hóa kém chất lượng thì tôi đã trả lời. Nói tóm lại là trách nhiệm thuộc về huyện. Và về phía sở, trách nhiệm của chúng tôi là phối hợp, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ. - Đại biểu Bùi Từ Thiện có ý kiến: + Qua báo cáo trả lời chất vấn của đồng chí, tình hình hàng giả, hàng kém chất lượng đang tồn tại trên địa bàn của chúng ta là quá lớn. Mới kiểm tra 10 tháng đầu năm, đã phát hiện 255 vụ vi phạm; nửa tấn mỳ chính giả, 6.050 gói kẹo giả, 25.000 dầu gội giả, 1 tấn bột giặt giả.... Đây là con số đã được kiểm tra, xác nhận và xử lý. Vậy thì từ đầu năm đến giờ chúng ta đã kiểm tra được bao nhiêu % đơn vị, tổ chức kinh doanh này; còn bao nhiêu % chưa được kiểm tra, nghĩa là chưa được phát hiện? Theo đồng chí, lượng hàng giả, hàng kém chất lượng đang tồn tại, lưu hành trên địa bàn tỉnh ta có lớn không? + Lực lượng quản lý thị trường quá mỏng. Các đội quản lý thị trường như đồng chí báo cáo đều đi thuê trụ sở làm việc, trang bị phương tiện làm việc không có gì. Tôi đề nghị đồng chí làm rõ trách nhiệm này thuộc về ai? Giám đốc sở đã đề xuất với tỉnh chưa? Tại sao để lực lượng quan trọng như thế này mà đi thuê trụ sở làm việc, trang bị phương tiện làm việc không có gì làm, lực lượng thì quá mỏng. Tôi đề nghị làm rõ vấn đề này. - Ông: Nguyễn Sỹ Chín - Giám đốc sở Công thương trả lời các vấn đề theo đề nghị của đại biểu Bùi Từ Thiện: Về nội dung hàng kém chất lượng thì Sở Công thương đã tăng cường và tích cực trong thời gian qua. Kết quả là kiểm tra trên 3.5090 lượt cơ sở, hộ kinh doanh trên toàn tỉnh và số lượng như chúng tôi vừa nêu. Chúng tôi cũng thừa nhận là chưa kiểm tra được triệt để. Tôi đề nghị trong thời gian tới, được sự quan tâm của các địa phương, sự phối hợp, chỉ đạo thêm để chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ. Còn về biên chế: Quản lý thị trường về lực lượng nằm trong tổng biên chế của sở. Cả sở biên chế được 87 công chức thì quản lý thị trường là 43 công chức. Bình quân 10 đội, mỗi đội trừ văn phòng ra còn khoảng 3 – 4 người. Về cơ sở vật chất, từ khi tách tỉnh đến nay, ở các đội quản lý thị trường phải thuê 100%. Riêng ở quản lý chi cục mới được nhận nhà tạm của ngân hàng phát triển sau khi ngân hàng chuyển ra trụ sở mới. Còn các thị trường, năm trước được sở Tài chính tham mưu kinh phí thuê là 3 triệu đồng/tháng/đội. Năm nay, theo phương án trình của Sở Tài chính là 1 triệu. Tôi đã báo cáo Phó Chủ tịch UBND tỉnh đề nghị quan tâm. Một đội quản lý thị trường 4 người, có kho tạm trữ hàng hóa thì 1 triệu không thuê được. - Bà: Giàng Páo Mỷ - Chủ tọa kỳ họp kết luận phần trả lời chất vấn của Giám đốc Sở Công thương Trong điều kiện kinh tế hết sức khó khăn, Lai Châu là tỉnh nghèo, địa bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn, ngành công thương đã tích cực tham mưu cho tỉnh để quản lý hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên với những điều kiện khó khăn như trên, không tránh khỏi những thiếu sót. Tuy nhiên chúng tôi đề nghị Giám đốc Sở Công thương phải tích cực hơn nữa, chủ động hơn nữa trong việc tham mưu UBND tỉnh giải quyết các vấn đề mà các đại biểu quan tâm. Đặc biệt trong thời gian sắp đến tết Nguyên đán, đề nghị đồng chí chủ động, tham mưu UBND tỉnh và trong trách nhiệm của mình phải thực hiện tốt trách nhiệm quản lý hoạt động thương mại trên địa bàn, đảm bảo cho người dân không mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng. Ở vùng sâu vùng xa, có hiện tượng dán mác lại, đề nghị các đồng chí kiểm tra nghiêm túc. Trong các giải pháp đồng chí nêu, có giải pháp thiết thực nhưng cũng có những giải pháp không khả thi, đề nghị đồng chí chủ động hơn trong nhiệm vụ của mình.
Trung tâm Giống trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đóng trên địa bàn huyện Tam Đường, được đầu tư vốn từ ngân sách nhà nước và đi vào hoạt động từ nhiều năm nhưng hoạt động của Trung tâm Giống không hiệu quả, các loại giống cây trồng vật nuôi trên địa bàn tỉnh vẫn phải nhập ở ngoài tỉnh vào ảnh hưởng đến chất lượng thời vụ của người dân. Đề nghị đồng chí Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm rõ: 1. Những tồn tại, hạn chế của Trung tâm giống trách nhiệm đó thuộc về ai? 2. Hiệu quả hoạt động của Trung tâm giống như thế nào? 3. Với cương vị là Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đồng chí chỉ đạo và có giải pháp gì để khắc phục trong thời gian tới? Ông Hà Văn Um – Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trả lời (Tại văn bản số 561/SNN-KHTC ngày 05/12/2013 của Sở Nông nghiệp & PTNN): Trung tâm Giống Nông nghiêp tỉnh Lai Châu là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Nông nghiệp và PTNT, được thành lập theo Quyết định số 1620/QĐ-UBND ngày 02/12/2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Lai Châu nhưng chính thức đi vào hoạt động từ tháng 9/2011 sau khi Quyết định của UBND tỉnh giải thể Trung tâm Chăn nuối, điều chỉnh một phần chức năng nhiệm vụ và cơ sở vật chất của Chi cục Thủy sản sang. Từ khi đi vào hoạt động đến nay, đơn vị đang trong quá trình kiện toàn tổ chức bộ máy và tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật để phục vụ cho sản xuất giống cung ứng cho nhân dân trên địa bàn. Đồng thời khắc phục những khó khăn về: diện tích đất sản xuất giống ít, khó mở rộng; cán bộ kỹ thuật của trung tâm còn thiếu (hiện tại Trung tâm Giống có 12 biên chế), đa số là mới tuyển dụng chưa có kinh nghiệm về sản xuất giống; cơ sở vật chất của Trung tâm Giống còn chưa hoàn thiện, thiếu hệ thống nhà xưởng, máy sấy, phân loại… phục vụ sản xuất giống. Mặt khác, việc sản xuất giống phải tuân thủ lộ trình chặt chẽ theo quy định của Bộ Nông nghiệp và PTNN như: đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất, về diện tích sản xuất, về nhân lực có kỹ thuật, kinh nghiệm trong sản xuất,… nên thời điểm hiện tại việc sản xuất giống tại tỉnh mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu của nhân dân. Bên cạnh đó, hàng năm Trung tâm Giống chỉ được cấp nguồn chi thường xuyên, nguồn vốn cho hoạt động sản xuất, cung ứng giống không huy động được. Như vậy với những lý do nêu trên đến thời điểm hiện tại chưa đủ cơ sở để đánh giá về hiệu quả hoạt động của Trung tâm Giống trong 2 năm vừa qua. Mặc dù vậy, trong thời gian vừa qua song song với việc tập trung chỉ đạo xây dựng cơ sở vật chất, Sở Nông nghiệp và PTNT đã chỉ đạo Trung tâm Giống khắc phục khó khăn tổ chức triển khai một số hoạt động sau: - Năm 2012: tiến hành khảo nghiệm sản xuất được 10 giống lúa mới và đã lựa chọn được các giống lúa PC6, DT34, GL01, chất lượng cao; phối hợp với Trung tâm Giống nông nghiệp Lào Cai thực hiện sản xuất 13 ha giống lúa Séng Cù tại xã Bình Lư (năng suất giống lúa trung bình đạt 35 tạ/ha), phối hợp với Công ty Cổ phần Đầu tư Thương mại Đại dương, sản xuất thử nghiệm hạt giống lúa lai F1 Thục Hưng 6 tại xã Bình Lư 3 ha, năng suất 1,8 tấn/ha. Tổ chức khảo nghiệm sản xuất 3 giống ngô lai LVN25, SB099 và giống LCH9; phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu và sản xuất giống ngô Sông Bôi – Viện nghiên cứu ngô, sản xuất thử nghiệm hạt giống ngô lai F1LLVN25 và giống ngô lai F1SB099. Tổ chức sản xuất giống thủy sản, đã sản xuất và cung ứng ra thị trường 60 vạn con cá giống các loại (đáp ứng khoảng 10%) nhu cầu sản xuất thủy sản cho bà con nhân dân trong toàn tỉnh. - Năm 2013: Tiến hành khảo nghiệm sản xuất và đề nghị đưa vào cơ cấu 02 giống lúa chất lượng cao (giống lúa Nam Định, giống lúa HC4) và 01 giống lúa có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu (giống lúa Hoa Khôi 4) vào sản xuất trên địa bàn tỉnh. Tiến hành khảo sát, phục tráng giống lúa đặc sản địa phương séng cù, tẻ râu làm nguồn giống phục vụ sản xuất. Sản xuất và đóng gói gần 10 tấn giống lúa thuần chất lượng phục vụ sản xuất trên địa bàn tỉnh. Tổ chức khảo nghiệm và đề nghị đưa vào cơ cấu giống 02 giống ngô lai có năng suất cao và khả năng chịu hạn vào sản xuất trên địa bàn tỉnh (giống ngô lai VN8960 và giống ngô lai LVN99). Sản xuất giống thủy sản và cung ứng ra thị trường 62 vạn con cá giống các loại đáp ứng (khoảng 10%) nhu cầu sản xuất thủy sản của bà con nhân dân trong tỉnh. Về đội ngũ cán bộ phục vụ công tác sản xuất giống: Đã cử đi học hỏi kinh nghiệm về kỹ thuật sản xuất hạt giống 01 cán bộ tại Trung tâm Giống Lào Cai và 01 cán bộ kỹ thuật lấy mẫu kiểm nghiệm chất lượng hạt giống tại Trung tâm Kiểm định giống quốc gia và tập huấn sản xuất giống tại Trung Quốc. Tuy số lượng giống sản xuất ra chưa nhiều song đội ngũ cán bộ của Trung tâm đã bước đầu tiếp cận và làm chủ được qui trình kỹ thuật sản xuất lúa lai, ngô lai, lúa xác nhận và một số giống thủy sản. Đây là tiền đề quan trọng, khẳng định cho việc tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất giống đáp ứng một phần nhu cầu giống nông nghiệp của tỉnh. Những chỉ đạo và một số giải pháp khắc phục chủ yếu của Sở Nông nghiệp và PTNN trong thời gian tới. (1). Yêu cầu nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công công trình Trung tâm giống. (2). Đề nghị Tỉnh đầu tư trang thiết bị cần thiết cho sản xuất giống như: hệ thống nhà xưởng, máy phân loại, máy sấy giống cho Trung tâm giống. (3). Đề nghị bổ sung chức năng kinh doanh, cung ứng giống cho Trung tâm giống nông nghiệp. (4). Điều động hoặc tuyển dụng cán bộ có kinh nghiệm, có chuyên môn phù hợp cho trung tâm giống. Tiếp tục cử cán bộ đi đào tạo, tập huấn chuyên sâu về quy trình kỹ thuật sản xuất giống tại các Trung tâm giống có uy tín trong và ngoài nước. (5). Chỉ đạo Trung tâm giống nông nghiệp xây dựng Đề án sản xuất, cung ứng giống, chủ yếu là giống lúa thuần, giống thủy sản, trong đó đề nghị Tỉnh xem xét cho vay vốn từ nguồn Ngân sách Nhà nước tỉnh. (6). Đề nghị UBND tỉnh xem xét phương án xây dựng đề án nhập trung tâm giống nông nghiệp với Công ty cổ phần giống vật tư Lai Châu để đảm bảo các khâu trong quá trình sản xuất và cung ứng giống được khép kín và đồng bộ. - Bà Giàng Páo Mỷ - Chủ tọa kỳ họp có ý kiến: Đồng chí đã trả lời đúng trọng tâm nội dung đại biểu hỏi. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy phần trả lời có một số điểm như sau: Thứ nhất đây là một trung tâm hoạt động về sản xuất giống, trình diễn mô hình, có nhiều chức năng, có 12 biên chế nhưng biên chế tuyển mới. Như vậy là một trung tâm cung cấp giống cho tỉnh như vậy mà hầu hết biên chế mới, chưa có kinh nghiệm thì rất khó khăn. Thứ hai, hàng năm nguồn chi chủ yếu là chi cho thường xuyên, không có nguồn chi cho hoạt động sản xuất, cung ứng giống, đây là một số vấn đề ảnh hướng đến hiệu quả hoạt động của Trung tâm giống. Chúng tôi muốn hỏi thêm là: Các giải pháp đồng chí nêu chủ yếu là đề nghị tỉnh, chưa nêu giải pháp Sở sẽ tham mưu, giải quyết như thế nào? Đề nghị đồng chí làm rõ thêm. - Đại biểu Sùng Lử Páo phát biểu: Tôi cơ bản nhất trí với trả lời của đồng chí Giám đốc sở và các ý kiến mà chủ tọa đã gợi ý. Đồng chí Giám đốc sở đưa ra 6 giải pháp, đây chủ yếu là giải pháp về kiến nghị. Mong muốn của người dân là đưa giống mới vào sản xuất, góp phần xóa đói giảm nghèo. Đề nghị đồng chí sớm triển khai các giải pháp. - Ông Hà Văn Um - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trả lời các vấn đề theo đề nghị của Chủ tọa kỳ họp: Sáu giải pháp cũng là 6 đề nghị của ngành. Đây cũng là những nhiệm vụ mà ngành phải tham mưu cho tỉnh. Việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng Trung tâm giống, ngành sẽ phối hợp với đơn vị nhà thầu đẩy nhanh tiến độ. Vấn đề đầu tư các trang thiết bị, ngành sẽ có tờ trình với UBND tỉnh. Việc đề nghị bổ sung chức chức năng kinh doanh cho Trung tâm giống, chúng tôi đã làm việc với Sở Nội vụ về vấn đề này. Vấn đề đội ngũ chuyên sâu, chúng tôi sẽ tiếp tục cử cán bộ đi học. Nhiệm vụ quan trọng nhất của trung tâm là khảo nhiệm, chúng tôi đang yêu cầu Trung tâm tiến hành rà soát toàn tỉnh, sau đó là xây dựng cơ cấu giống cho từng vùng và có những khuyến cáo về cơ cấu giống phù hợp cho từng vùng. - Bà Giàng Páo Mỷ - Chủ tọa kỳ họp có ý kiến: Các giải pháp đồng chí Giám đốc Sở nêu hầu hết đều là các đề nghị với UBND tỉnh. Sau đây đề nghị đại diện lãnh đạo UBND tỉnh có ý kiến về nội dung này để cử tri nắm được, với đề xuất của ngành như vậy, UBND tỉnh sẽ có hướng giải quyết như thế nào? - Ông Lê Trọng Quảng – Phó Chủ tịch UBND tỉnh có ý kiến: Năm 2013, UBND tỉnh đã tạo điều kiện cho Sở Nông nghiệp tổ chức 2 đoàn đi tham quan, học tập cách làm của các tỉnh. Tôi đã bàn với đồng chí Giám đốc Sở, chúng ta phải tư duy theo cơ chế thị trường. Nhà nước cho cơ chế, còn chúng ta cụ thể và triển khai thực hiện theo cơ chế. Thứ 2 tới (09/12/2013), tôi sẽ làm việc với sở Nông nghiệp, công ty giống, các Chi cục của Sở trong 2 ngày để bàn và có hướng giải quyết cụ thể các vấn đề trên. - Bà Giàng Páo Mỷ - Chủ tọa kỳ họp kết luận phần trả lời chất vấn của giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Như vậy, sau kỳ họp này, đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh sẽ làm việc với sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để làm rõ các kiến nghị, đề nghị và phải thực hiện đúng chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 3. Đại biểu Đao Thị Thủy, Tổ đại biểu huyện Mường Tè chất vấn Uỷ ban nhân dân tỉnh: Hiện nay có tình trạng một số tập đoàn, tổng công ty xin cấp phép đầu tư về thủy điện. Nhưng sau khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư các tập đoàn, tổng công ty này không triển khai thực hiện theo quy định mà để ngâm dự án. - Ở Mường Tè có giấy chứng nhận đầu tư 4 bậc thủy điện Nậm Sì Lường cho Công ty Sông Đà 7 đã cấp lại lần 2 đến nay đều đã hết hạn. Đầu năm 2013, Công ty có báo cáo với huyện sẽ động thổ khởi công công trình nhưng đến nay vẫn không làm gì. - Thủy điện Nậm Cấu 1, 2 Tổng Công ty Si Măng miền Bắc đã mở xong đường công vụ nhưng đã ngừng triển khai hơn 1 năm nay không rõ nguyên nhân. - Cấp ủy chính quyền và nhân dân địa phương rất băn khoăn thắc mắc các dự án này sẽ còn tiếp tục thực hiện hay là bỏ. Đề nghị UBND tỉnh làm rõ nguyên nhân và hướng xử lý như thế nào? Ông Đặng Trần Thắng – Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư (thừa ủy quyền của UBND tỉnh) trả lời (Tại văn bản số 1632/UBND-CN ngày 05/12/2013 của Uỷ ban nhân dân tỉnh): - Việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư các dự án thủy điện trên địa bàn tỉnh Lai Châu đã đảm bảo theo đúng Quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ được Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) và UBND tỉnh phê duyệt. Qua rà soát của Bộ Công Thương về quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ toán quốc năm 2013 tỉnh Lai Châu chưa có dự án nào loại ra khỏi quy hoạch, đồng thời Bộ Công Thương đã bổ sung quy hoạch thủy điện Pắc Ma vào quy hoạch bậc thang thủy điện Sông Đà tại Quyết định số 8638/QĐ-BTC ngày 19/11/2013. Tuy nhiên hầu hết các dự án thủy điện trên địa bàn huyện Mường Tè chậm tiến độ theo Giấy chứng nhận đầu tư, hiện mới thực hiện xong các bước khảo sát, thiết kế chưa tiến hành khởi công xây dựng là do nguyên nhân cụ thể như sau: * Nguyên nhân khách quan: Theo quy hoạch phát triển điện lực tỉnh Lai Châu giai đoạn 2006 - 2010 có xét đến 2015 và Quyết định của Bộ Công Thương về việc phê duyệt phương án thủy điện vừa và nhỏ Miền Bắc vào hệ thống điện quốc gia 2009 - 2010 có xét đến 2015 (tại Quyết định số 0643/QĐ-BTC ngày 09/02/2009 của Bộ Công Thương) thì đến năm 2010 sẽ hoàn thiện xong đường dây lưới điện 110KV để phục vụ việc truyền tải và đấu nối các dự án thủy điện trên địa bàn tỉnh lên lưới điện quốc. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại lưới điện 110KV vẫn chưa được xây dựng trên địa bàn huyện Mường Tè. * Nguyên nhân chủ quan: Việc huy động vốn thực hiện dự án gặp nhiều khó khăn trong khi các dự án thủy điện vốn đầu tư lớn, do đó phần lớn các dự án thủy điện trên địa bàn các huyện triển khai xây dựng cầm chừng hoặc tạm ngừng thi công hoặc chưa triển khai xây dựng vì chưa có lưới điện để truyền tải hoặc thiếu vốn thực hiện dự án. Các nhà đầu tư cam kết tiếp tục triển khai thực hiện dự án khi có đường dây truyền tải điện. Hàng năm UBND tỉnh chỉ đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các Sở, ban, ngành tỉnh thường xuyên kiểm tra, rà soát tình hình thực hiện dự án sau cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án thủy điện trên địa bàn tỉnh, qua đó đã tiến hành thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư của 15/50 dự án do vi phạm các quy định của Luật Doanh nghiệp. Hiện nay UBND tỉnh đang tiếp tục chỉ đạo kiểm tra, rà soát và tiến hành thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án vi phạm quy định của pháp luật. - Đối với 4 dự án bậc thủy điện Nậm Sì Lường: UBND tỉnh Lai Châu không cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho công ty Sông Đà 7. Dự án đầu tư công trình thủy điện Nậm Sì Lường 1,2,3,4 đã được UBND tỉnh Lai Châu cấp Giấy chứng nhận đầu tư ngày 22/6/2007 cho Tổng công ty Cổ phần Thương mại Xây dựng, tuy nhiên các dự án này đã vi phạm các quy định của Luật Đầu tư do đó UBND tỉnh đã thu hồi 04 Giấy chứng nhận đầu tư tại Quyết định số 183/QĐ-UBND ngày 24/02/2009. Sau đó 02 dự án đầu tư thủy điện Nậm Sì Lường 3,4 đã được cấp lại Giấy chứng nhận đầu tư mới số 23121000161 và 23121000162 ngày 31/8/2009 cho công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng thủy điện; thời gian khởi công tháng 10/2009, hoàn thành phát điện vào tháng 10/2011. Ngày 30/9/2010 điều chỉnh lại tiến độ thực hiện 02 dự án là khởi công tháng 8/2010 hoàn thành tháng 8/2013. Hiện nay 02 dự án mới thực hiện xong công tác đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng một số lán tạm cho công nhân ở sau đó dừng triển khai không tiếp tục thực hiện. Các sở, ngành chức năng đã phối hợp với UBND huyện Mường Tè kiểm tra, đôn đốc yêu cầu nhà đầu tư báo cáo tình hình thực hiện và kế hoạch triển khai dự án tiếp theo nhưng không có phản hồi của nhà đầu tư, hiện các cơ quan chức năng đang tiến hành tiếp tục đôn đốc nhà đầu tư khẩn trương triển khai thực hiện dự án theo tiến độ tại Giấy chứng nhận đầu tư đã cấp hoặc vi phạm các qu định khác của pháp luật về đầu tư, sở Kế hoạch và Đầu tư tham mưu UBND tỉnh thu hồi giấy chứng nhận đầu tư. - Đối với dự án Thủy điện Nậm Cấu 1,2: Đã được UBND tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty CP kinh doanh xi măng Miền Bắc làm chủ đầu tư (không phải là Tổng Công ty xi măng Miền Bắc như nội dung chất vấn của đại biểu); dự án Nậm Cấu 1 tại Giấy chứng nhận số 23121000151 (khởi công quý 4-2009 dự kiến hoàn thành quý 4-2011) và dự án Nậm Cấu 2 tại Giấy chứng nhận số 23121000152 ngày 16/7/2009 (khởi công năm 2010, hoàn thành năm 2012). Hiện tại hai dự án này đã tiến hành xây dựng một số hạng mục chính như đường giao thông vào dự án và mặt bằng khu vực nhà máy, tuy nhiên do một số khó khăn về tài chính nên dự án đang bị chậm tiến độ so với dự kiến ban đầu, nhà đầu tư đã có báo cáo và văn bản đề nghị xin điều chỉnh tiến độ thực hiện dự án và cam kết đẩy nhanh tiến độ thi công xây dựng dự án. - Bà Giàng Páo Mỷ - Chủ tọa kỳ họp có ý kiến: Đại biểu Đao Thị Thủy đã nêu lên vấn đề chậm thi công các dự án thủy điện trên địa bàn huyện Mường Tè. Giám đốc sở đã trả lời rất rõ các nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tiến độ. Tuy nhiên, việc chậm tiến độ các dự án này đã diễn ra nhiều lần, kéo dài nhiều năm, Dự án thủy điện Nậm Sì Lường 3,4 được cấp phép lại nhưng đến nay vẫn chậm tiến độ thì bao giờ UBND tỉnh sẽ thu hồi giấy phép này? Đối với Dự án Nậm Cấu 1,2: đề nghị nói rõ thời gian điều chỉnh cho phép đến thời điểm nào? Đại biểu Đao Thị Thủy và các đại biểu có ý kiến không? - Đại biểu Đao Thị Thủy: Nhất trí với trả lời của Giám đốc sở Kế hoạch và Đầu tư và không có ý kiến gì thêm. - Đại biểu Lý Anh Hừ - Tổ đại biểu huyện Mường Tè có ý kiến: Về việc cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các dự án thủy điện Nậm Sì Lường cho Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng thủy điện nhưng địa phương chúng tôi không biết công ty này vì họ chưa bao giờ đến liên hệ công tác mà công ty đến liên hệ công tác và mời địa phương đến đi dự động thổ là Công ty Sông Đà 7. Rõ ràng ở đây có tình trạng cấp phép cho công ty này nhưng đã chuyển cho công ty khác bằng hình thức khác. Chúng tôi cũng thấy: Hiện nay quy hoạch mạng lưới thủy điện vừa và nhỏ trên địa bàn toàn tỉnh, có lẽ Mường Tè là lớn nhất thì được công bố và một số dự án đã khởi động, các dự án đều được công bố cho nhân dân dù ở mức độ nào. Mong muốn chúng ta tiếp tục rà soát và xử lý các đơn vị vi phạm. Tôi biết nhiều công ty muốn làm nhưng không dễ dàng, không thể để tình trạng hết hạn lại xin cấp phép. - Ông Đặng Trần Thắng - Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư trả lời các vấn đề theo đề nghị của Chủ tọa kỳ họp và đại biểu Lý Anh Hừ Việc xử lý việc chậm tiến độ các dự án thủy điện Nậm Sì Lường 3,4 và Nậm Cấu 1,2, UBND tỉnh xử lý như thế nào? Chúng tôi đã nói rõ về hướng xử lý, mong chủ tọa và các đại biểu chia sẻ với các nhà đầu tư với lý do: nếu làm xong nhà máy thì cũng không có đường ống nối trung điện; việc tiếp cận vốn vay của các nhà đầu tư cũng rất khó khăn; vốn tự có đảm bảo 30% cũng bị ảnh hưởng do lạm phát vừa qua. Đối với dự án thủy điện Nậm Sì Lường 3,4: Nếu chủ đầu tư tiếp tục trây ỳ, không thi công, chúng tôi sẽ buộc thu hồi. Thời gian thu cũng phải trong năm 2014. Về gia hạn thời gian với Nậm Cấu 1,2: Chúng tôi đã nhận được văn bản xin gia hạn của chủ đầu tư nhưng đang xem xét, chưa có thời gian cụ thể. - Đại biểu Dì A Xà – Tổ đại biểu huyện Phong Thổ có ý kiến: Đề nghị rút giấy phép đầu tư đối với dự án thủy điện tại Nậm Xe vì chính quyền không biết, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. - Ông Đặng Trần Thắng - Giám đốc sở Kế hoạch và Đầu tư trả lời các vấn đề theo đề nghị của đại biểu Dì A Xà: Về mặt loại bỏ các dự án thủy điện nhỏ ra khỏi quy hoạch. Riêng với Lai Châu qua rà soát, chưa có danh mục nào nằm trong danh mục loại bỏ của Trung ương. Trên địa bàn huyện Phong Thổ có 2 dự án thủy điện, 1 dự án chuẩn bị đi vào hoạt động, 1 dự án chuẩn bị đầu tư. Xin tiếp thu ý kiến của đại biểu, chúng tôi sẽ kiểm tra, báo cáo UBND tỉnh xem xét giải quyết và thông báo đến đại biểu sau. * Bà Giàng Páo Mỷ - Chủ tọa kỳ họp kết luận phiên chất vấn và trả lời chất vấn: Kỳ họp này có 3 phiếu chất vấn, tuy nhiên nội dung khá rộng và được các vị đại biểu đại diện UBND tỉnh trả lời nghiêm túc, rõ ràng. Trong quá trình trả lời tại Hội trường, các lãnh đạo đã trả lời nghiêm túc, rõ ràng, mạch lạc. Tuy nhiên, cũng còn những nội dung chưa đi vào cụ thể, các vị đại biểu còn phải hỏi lại. Tôi đề nghị: - Giám đốc Sở Công thương sớm triển khai thực hiện các giải pháp. - UBND tỉnh sớm giải quyết các vấn đề cần giải quyết để kịp thời cung ứng giống đáp ứng nhu cầu trên địa bàn. - UBND tỉnh sớm triển khai chỉ đạo kiểm tra, rà soát các quy hoạch thủy điện trên địa bàn, từ đó, khẳng định hiệu quả các dự án thủy điện. Dự án nào có tính khả thi thì cho triển khai, dự án nào không đảm bảo tiến độ, ảnh hưởng đến môi trường thì thu hồi. Tin liên quan Tình hình xử lý đơn thư, khiếu nại, tố cáo đã tiếp nhận tháng 04 năm 2017(08/05/2017 3:41:00 CH) Tình hình xử lý đơn thư, khiếu nại, tố cáo đã tiếp nhận tháng 03 năm 2017(08/05/2017 3:34:59 CH) Tình hình xử lý đơn thư, khiếu nại, tố cáo đã tiếp nhận xử lý tháng 02 năm 2017(05/05/2017 2:44:47 CH) Tình hình xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị tháng 1/2017(04/05/2017 3:20:37 CH) TỔNG HỢP CHẤT VẤN VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN TẠI KỲ HỌP THỨ TƯ HĐND TỈNH KHÓA XIV, NHIỆM KỲ 2016 – 2021(10/01/2017 2:14:20 CH) Tin mới nhất ĐOÀN ĐBQH TỈNH GIÁM SÁT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN LUẬT TỔ CHỨC TÒA ÁN NHÂN DÂN NĂM 2014 (29/09/2023 4:28:39 CH) ĐOÀN ĐBQH TỈNH GIÁM SÁT TÌNH HÌNH THỰC HIỆN LUẬT TỔ CHỨC TÒA ÁN NHÂN DÂN NĂM 2014 TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHONG THỔ(29/09/2023 9:57:26 SA) Sinh hoạt Chi bộ thường kỳ tháng 9 năm 2023(28/09/2023 8:14:47 SA) Kế hoạch tiếp xúc cử tri trước kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV của Đoàn ĐBQH tỉnh Lai Châu(25/09/2023 11:24:49 SA) TÀI LIỆU KỲ HỌP THỮ 18 (CHUYÊN ĐỀ) HĐND TỈNH KHÓA XV, NHIỆM KỲ 2021-2026(25/09/2023 10:47:33 SA) |
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐOÀN ĐBQH VÀ HĐND TỈNH LAI CHÂU |
|
Chịu trách nhiệm chính: Trụ sở: Email: Số điện thoại: |
Ông Dương Quốc Hoàn- Chánh Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Lai Châu Tầng 4,5 nhà B - khu Hành chính - Chính trị tỉnh - Số điện thoại: 0213.3798.221 Số Fax: 0213.3798.228 ttdn.hdndtinh@laichau.gov.vn Ghi rõ nguồn www.hdnd.laichau.gov.vn khi sử dụng thông tin trên website này |